PDA

View Full Version : Những bản tuyên ngôn Xưa & Nay !



ngayxua
06-10-2006, 11:13 AM
Bình ngô đại cáo

Nguyễn Trãi
Bình Ngô đại cáo: nếu dịch sát nghĩa th́ là Báo cáo rộng khắp về việc dẹp yên giặc Ngô. Tháng giêng năm 1428, nước Việt đă hoàn toàn chiến thắng giặc Minh. Lê Lợi lên ngôi vua và cử Nguyễn Trăi viết bài cáo này để báo cho toàn dân biết về sự nghiệp kháng chiến thành công của nghĩa quân Lam Sơn và nêu cao khát vọng xây dựng đất nước ḥa b́nh thịnh trị. Bài đại cáo này đă được người xưa mệnh danh là "thiên cổ hùng văn" (hùng văn muôn thuở), người nay coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai (sau bài thơ Nam quốc sơn hà) của dân tộc.
Bài đại cáo được viết theo thể cáo là một thể văn hành chính thường dùng cho nhà vua để phổ biến những điều quan trọng trước toàn dân. ở đây, Nguyễn Trăi đă viết bài cáo theo lối văn biền ngẫu, tức mỗi câu thường có hai vế đối nhau theo phép đối nhưng không có vần.
*
* *
Thay trời hành hóa, Hoàng thượng truyền rằng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo,
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đă lâu,
Núi sông bờ cơi đă chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác,
Từ Triệu, Đinh, Lư, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mă
Việc xưa xem xét
Chứng cớ c̣n ghi
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước ḷng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà c̣n bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời, lừa dân, đủ muôn ngh́n kế,
Gây binh kết oán, trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa, sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển ḍng lưng ṃ ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đăi cát t́m vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt ḍ chim sả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những nỗi phu phen.
Tan tác cả nghề canh cửi
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dă nương ḿnh
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.
Đau ḷng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời,
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối,
Quên ăn v́ giận, sách lược thao suy xét đă tinh
Ngẫm trước đến nay; lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt v́:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.
Tấm ḷng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm c̣n dành phía tả
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nh́n chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc ḷng, vội vă hơn cứu người chết đuối
Phần v́ giận quân thù ngang dọc
Phần v́ lo vận nước khó khăn
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần
Khi Khôi Huyện quân không một đội
Trời thử ḷng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan;
Nhân dân bốn cơi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một ḷng phụ tử, ḥa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay
Sĩ khí đă hăng
Quân thanh càng mạnh
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lư An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân
Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đă phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lư Lượng cũng đành bỏ mạng
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mă Anh, cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng
Bó tay để đợi bại vong, giặc đă trí cùng lực kiệt
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đă thay ḷng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại c̣n chuốc tội gây oan
Giữ ư kiến một người, gieo vạ cho bao kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhăi con Tuyên Đức động binh không ngừng,
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang,
Ta trước đă điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong,
Ta lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực,
Ngày mười tám: trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi: trận Mă Yên Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm: bá tước Lương Minh đại bại tử vong,
Ngày hăm tám: thượng thư Lư Khánh cùng kế tự vẫn
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá,
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau.
Lại thêm quân bốn mặt vây thành,
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc.
Sĩ tốt kén tay hùng hổ,
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.
Gươm mài đá, đá núi cũng ṃn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không ḱnh ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chết đầy đường
Xương Giang, B́nh Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi
Thảm đạm thay! ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam hồ đồ sợ bóng mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lănh Câu, máu chảy trôi chày nước sông nghẹn ngào tiếng khóc.
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đ́a máu đen,
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng,
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng,
Thần Vũ chẳng giết hại, thể ḷng trời ta mở đường hiếu sinh,
Mă Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc
Vương Thông, Mă Anh, phát cho vài ngh́n cổ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đă tham sống sợ chết mà ḥa hiếu thực ḷng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức
Chẳng những mưu kế ḱ diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xă tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt hối mà lại minh
Muôn thuở nền thái b́nh vững chắc
Ngàn năm, vết nhục nhă sạch làu
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ, mới được như vậy.
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh b́nh, ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay.
(Nguyên văn bằng chữ Hán,
bản dịch của Bùi Văn Nguyên
dựa theo bản dịch của Bùi Kỉ)



--------------------------------------------------------------------------------

Đại cáo: có thể hiểu là tuyên cáo rộng khắp hoặc là bài cáo có quy mô lớn. B́nh Ngô: dẹp yên (b́nh)
giặc Ngô, tức giặ c Minh. Đời Ngô (thời Tam Quốc), bọn người sang cai trị nước Việt đều tàn ác nên dân
Việt từ đó gọi người phương Bắc là người Ngô với ư khinh ghét.
Hành hóa: làm việc cảm hóa dân chúng thành người tốt.
Hoàng thượng: hoàng là những ǵ thuộc về vua, thượng là trên. Hoàng thượng là từ dùng để gọi nhà vua một cách tôn kính. Thay trời...
truyền rằng: câu này thường có trong các giấy tờ quan trọng của các vua đời Lê.
Nhân nghĩa: vốn là học thuyết đạo đức của Nho giáo trong đó nói về những đạo đức, t́nh thương của
con người với nhau. ở đây tác giả đă tiếp thụ tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo theo hướng lấy lợi ích
nhân dân, dân tộc làm gốc.
Yên dân: đưa lại cuộc sống yên ổn cho dân.
Điếu phạt: v́ thương xót (điếu) dân chúng bị tàn hại mà dùng quân đội trừng phạt (phạt) kẻ gây tội ác.
Trừ bạo: tiêu diệt kẻ bạo tàn (đây là nói giặc Minh xâm lược).
Đại Việt: tên nước Việt Nam từ đời vua Lư Thánh Tông.
Văn hiến: từ dùng chỉ một đất nước có thể chế kỷ cương chính trị tiến bộ, có truyền thống văn minh vật
chất và tinh thần tốt đẹp, có sách vở và có người tài giỏi.
Bắc Nam: Bắc chỉ Trung Quốc, Nam chỉ Việt Nam.
Đinh, Lư, Trần: các triều đại đă xây dựng nền độc lập buổi đầu của Việt Nam sau khi thoát khỏi ngàn
năm Bắc thuộc. Riêng Triệu, chính là Triệu Đà đă từng cướp nước Âu Lạc mà sách xưa từng lầm là một
triều đại của nước ta. ở đây Nguyễn Trăi cũng lầm.
Hán, Đường, Tống, Nguyên: các triều đại của Trung Quốc.
Hào kiệt: người có tài năng hơn người.
Lưu Cung: vua của Nam Hán (Trung Quốc) từng sai con là Hoằng Thao đem quân xâm lược bị Ngô
Quyền đánh bại trên sông Bạch Đằng.
Tham công: tham lập công.
Triệu Tiết: tướng nhà Tống đem quân xâm lược Đại Việt bị Lư Thường Kiệt đánh đuổi.
Toa Đô: tướng Nguyên - Mông sang xâm lược Đại Việt bị giết (không phải bị bắt sống) trong trận Hàm
Tử.
Ô Maơ Nhi, tướng Nguyên Mông xâm lược Đại Việt bị bắt sống, không phải bị giết.
Chính sự phiền haø: việc chính trị có nhiều điều phiền nhiễu, hà khắc.
Cuồng Minh: giặc Minh điên cuồng.
Gian taø: xấu xa, trái lẽ phải.
Cầu vinh: mưu cầu vinh quang bất chính.
Dân đen: tục xưa, người dân không được đội mũ, chỉ để đầu tóc đen mà đi. Do đó có từ dân đen để chỉ dân thường.
Con đoû: trẻ con mới đẻ ra c̣n đỏ hỏn, cần săn sóc. Do đó có từ con đỏ để chỉ người dân cần được kẻ làm quan chăn dắt.
Hai mươi năm: tính thời gian quân Minh xâm lược Đại Việt từ 1407 đến 1427.
ư cả câu: theo quan niệm xưa, nhân nghĩa của con người được trời đất, vũ trụ chứng kiến, tham gia. Nay giặc Minh tàn hại dân là làm tan cả nhân nghĩa mà cũng nát cả đất trời.
Ḍng lưng: buộc dây vào lưng. Giặc Minh bắt dân Việt ḍng dây vào lưng để ném xuống biển ṃ ngọc
trai.
Cá mập: giống cá dữ hay ăn thịt người.
Thuồng luồng: một loại rắn biển rất dữ.
Ḍ, bẫy, cạm, lưới: các dụng cụ dùng bắt chim, thú.
Chim sả: loại chim có bộ lông mầu xanh biếc rất đẹp.
Hươu đen: loại hươu có bộ lông đen rất quư.
Phục dịch: hầu hạ theo lệnh của người khác (giặc Minh).
Canh cửi: nghề dệt vải lụa.
Trúc Nam Sơn: trúc là tre. Ngày xưa khi chưa có giấy, người ta phải ghi chữ trên thanh tre. Tre núi
Nam.
Đông Hải: biển Đông.
Lam Sơn: nay thuộc xă Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, quê hương của Lê Lợi và là nơi
căn cứ địa đầu tiên của cuộc khởi nghĩa chống Minh do Lê Lợi phát động.
Hoang daơ: nơi đồng quê hoang vu.
Nếm mật nằm gai: ăn th́ nếm mật đắng, ngủ th́ nằm trên gai. ư nói chịu gian khổ để không quên
chuyện phục thù.
Sách lược thao: sách binh pháp ngày xưa gồm "tam lược" và "lục thao".
Hưng phế: hưng là dấy lên thịnh vượng. Phế là hư bỏ. Người xưa có quan niệm về hưng phế, về thịnh suy và coi đó như là luật của tự nhiên, hết hưng đến phế, hết phế đến hưng, cứ thế cứ thế... Các triều đại đều đă có hưng, có phế.
Đồ hồi: mưu tính (đồ) để kéo trở lại (hồi), tức nói khôi phục.
Tuấn kiệt: kẻ tài giỏi. Như sao buổi sớm: ư nói hiếm.
Như lá mùa thu: mùa thu lá rụng hết. ư nói hiếm
Việc bôn tẩu: bôn là nhanh, tẩu là chạy. Việc bôn tẩu: việc chạy đây chạy đó để lo công việc cần kíp.
Duy ác: màn che nơi bộ tham mưu của quân đội xưa. Đây có nghĩa là nơi bàn việc quân.
Tiến về đông: khởi nghĩa bắt đầu ở phía tây Thanh Hóa, nên tiến về đông là tiến về đồng bằng, tiến về Đông Kinh (tức Hà Nội ngày nay) để từ đó tiếp tục tiến lên giành thắng lợi cuối cùng (Tiến về đông; Trong nguyên tác là "dục đông" vốn thuộc câu nói của Lưu Bang khi ông này bị Hạng Vơ phong cho vào Tây Thục: "Dư diệc dục đông, an năng uất uất cửu cư thứ hồ". (Ta muốn trở về đông, sao chịu uất ức ở măi chốn này).
Dành phía tả: theo điển xưa, để chờ đợi đón người hiền tài đến giúp, người ta đă dành sẵn phía bên trái cỗ xe. ở đây, ư nói chờ người hiền tài cùng tham gia chống giặc.
Linh Sơn: núi Chí Linh thuộc huyện Lang Chánh ở miền núi Thanh Hóa (không phải Chí Linh là một huyện ở Hải Dương). Nguyễn Trăi có bài Phú núi Chí Linh là Chí Linh này.
Khôi Huyện: cũng gọi là Khôi Sách, thuộc miền tây của tỉnh Ninh B́nh.
Mệnh lớn: Sứ mệnh lớn, sứ mệnh cứu nước.
Câu này trong nguyên văn có nghĩa là: giương gậy làm cờ, manh lệ bốn phương tụ họp. Manh là người đi cày. Lệ là người đi ở. Nghĩa quân Lam Sơn gồm những người manh lệ đó.
Ḥa nước sông: xưa có viên tướng giỏi, được tặng một b́nh rượu, đă đem đổ xuống sông rồi cùng quân sĩ múc nước sông lên uống. ư nói tướng sĩ cùng một ḷng, đồng cam cộng khổ.
Xuất kỳ: ra quân một cách bất ngờ làm cho kẻ địch không lường được.
Mai phục: ẩn núp chờ địch đến để đánh bất ngờ.
Đại nghĩa: nghĩa lớn
Chí nhân: ḷng nhân ở độ hết mực.
ư cả hai câu: lấy lư tưởng nhân nghĩa để thắng giặc Minh là kẻ hung tàn, cường bạo.
Bồ Đằng: một ngọn núi thuộc huyện Quỳ Châu, Nghệ An.
Trà Lân: một địa điểm thuộc huyện Con Cương, Nghệ An.
Trúc trẻ, tro bay: cái thế chẻ trúc là cái thế chỉ chẻ một nhát ở đầu là cả cây sẽ toác dần ra. C̣n tro bay th́ sẽ tung tóe. ư nói sức mạnh chiến thắng của nghĩa quân làm cho quân thù tan tác như tro bay và không thể cưỡng nổi như tre đă bị chẻ.
Sĩ khí: khí thế của binh lính (chứ không phải của kẻ sĩ, của học tṛ như trong câu thơ của Tú Xương sau này: "Sĩ khí rụt rè gà phải cáo").
Quân thanh: tiếng tăm của quân đội.
Trần Trí, Sơn Thọ: hai tên tướng giặc. Mất vía: sợ hết hồn. Nguyễn Trăi đă từng viết thư và làm lung lay tinh thần hai viên tướng này.
Lư An, Phương Chính: hai tên tướng giặc.
Tây Kinh: Tây Đô ở Thanh Hóa, nơi nhà Hồ đóng đô.
Đông Đô: Thăng Long (Hà Nội).
Ninh Kiều: Một địa điểm thuộc huyện Chương Mỹ, Hà Tây.
Tụy Động hoặc Tốt Động: một địa điểm khác cũng thuộc huyện Chương Mĩ.
Phúc tâm quân giặc: những tên tay chân được giặc tin như bụng (phúc) như ḷng (tâm) của ḿnh.
Mọt gian kẻ thù: kẻ thù gian ngoan sâu mọt.
(suuta6m)

ngayxua
06-10-2006, 11:15 AM
Nam Quốc Sơn Hà

Nam quốc sơn hà nam đế cư,
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm ?
Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư.
Dịch là
Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách trời.
Có sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. :compu:

cuongpro411
02-11-2006, 04:15 AM
Gia đình bà Hoàng Thị Minh Hồ ở 48 Hàng Ngang (Hà Nội) không chỉ là cơ sở bí mật của các cán bộ cao cấp mà còn là nơi che giấu cho chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo bản tuyên ngôn độc lập. Nhân dịp kỷ niệm 60 năm Cách mạng tháng tám, bà đã kể lại những kỷ niệm đó.

"Một hôm, cuối tháng Tám năm 1945, anh Thận (tên gọi thân mật của đồng chí Trường Chinh) đến nói với tôi: "Chị lo một chỗ cho mấy Cụ về". Thấy vẻ mặt anh Thận khác mọi lần, tôi linh cảm có điều gì quan trọng, nhưng không dám hỏi thêm. Tối hôm đó, có ba người lạ đến, trong đó có một ông cụ dáng cao, người gầy, nhưng đôi mắt rất sáng và vầng trán rộng. Tôi băn khoăn không hiểu ông cụ là ai mà mọi người kính trọng yêu thương như tình cha con trong gia đình lễ giáo vậy! Tôi thầm nghĩ, ông cụ là một người có cương vị tối cao.

Theo kế hoạch của Thường vụ Trung ương Đảng, ngày 23/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh về Hà Nội chuẩn bị cho lễ Tuyên ngôn Độc lập và Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân đồng bào. Trong những ngày đầu cách mạng, Hồ chủ tịch và các cán bộ trong Thường vụ Trung ương gặp muôn vàn khó khăn nguy hiểm bởi hàng ngày, hàng giờ kẻ thù luôn rình rập ám hại chủ tịch hòng dập tắt phong trào cách mạng. Trong điều kiện "ngàn cân treo sợi tóc" đó, có những gia đình không quản hy sinh tính mạng và của cải, hết lòng vì cách mạng, cùng với lực lượng Cảnh vệ che giấu, bảo vệ Bác Hồ và Thường vụ Trung ương. Một trong những gia đình đó là gia đình bà Hoàng Thị Minh Hồ.

Gia đình bà Hồ đã ủng hộ cách mạng và hiến cho Nhà nước hàng nghìn cây vàng (chỉ tính riêng quỹ Độc lập, gia đình bà đã ủng hộ số tiền tương đương 500 cây vàng). Gia đình bà còn là cơ sở bí mật của nhiều cán bộ cấp cao như Nguyễn Lương Bằng, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp...

Hàng ngày bị cuốn hút bởi bao công việc, tôi vẫn canh cánh lo toan phần việc trên gác 2 nhà mình, cắt cử người nhà cơm nước và làm mọi việc trong nhà, không ai được lên tầng 2. Đêm nào tôi cũng nghe tiếng máy chữ của ông cụ rất khuya. Mùi thơm thuốc lá phảng phất tận cửa phòng nghỉ của tôi. Chuông đồng hồ điểm 12 tiếng, đèn trên phòng của cụ mới tắt, nhưng đồng hồ điểm 5 tiếng, đã thấy ông cụ dậy tập thể dục ngoài ban công.

Tối 1/9/1945, ông Nguyễn Lương Bằng đưa cho tôi một tấm thiếp mời của Ban tổ chức Chính phủ lâm thời do Cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch ra mắt Quốc dân tại vườn hoa Ba Đình. Gần 10h sáng hôm sau, tôi mới vào được khu vực khách mời dự, sát lễ đài. Hai giờ chiều, buổi lễ bắt đầu, tiếng hô to, kéo dài vang vọng: "Chào cờ...". Cả biển người im phăng phắc. Đoàn quân nhạc cử Quốc ca. Người tôi sởn gai ốc, nước mắt lăn dài trên hai gò má. Dứt tiếng Quốc thiều, mắt đang nhòa lệ, tôi nhìn lên kỳ đài thấy ông cụ - người đã từng ở gác 2 nhà tôi. Đó chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh đang dõng dạc hỏi: "Tôi nói đồng bào nghe rõ không?". Lời Người nghe như lời non nước vọng lại làm cả biển người đồng thanh hô vang: "Hồ Chủ tịch muôn năm!". Nước mắt tôi lại trào dâng, cảm giác ngây ngất, nhưng vẫn nghe rõ lời ông cụ đọc. Tôi lại bâng khuâng liên tưởng đến những đêm với tiếng máy chữ của ông cụ gõ trong khuya, tạc lên áng văn rửa nỗi nhục mất nước ngót trăm năm và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Một tuần sau ngày cụ Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập, cụ cho gọi vợ chồng tôi lên gặp. Chưa hiểu có chuyện gì, trong lòng thấy lo. Tôi nghĩ, hay mình làm việc gì không phải để cụ không hài lòng. Khi vợ chồng tôi lên, thấy ông Cụ cầm một chiếc ngà voi, trên có khắc một đàn voi, vòi con nọ quấn lấy con kia. Trao món quà cho tôi, cụ mỉm cười nói rất thân mật:

- Bác và Thường vụ tặng gia đình cô món quà, chúc gia đình và cách mạng đoàn kết như đàn voi này.

Nhận món quà từ tay Cụ Hồ trao, tôi xúc động quá, tự nhiên thấy cay cay nơi sống mũi, rồi nước mắt cứ ứa ra, muốn nói mà ấp úng mãi mới thành lời:

- Thưa Cụ, gia đình cháu xin cảm ơn Cụ, cảm ơn cách mạng, nguyện suốt đời đi theo cách mạng.

Thời gian thấm thoắt trôi đi, đến nay đã tròn 60 năm, nhưng những kỷ niệm về Bác Hồ trong những ngày đầu cách mạng vẫn in sâu trong ký ức tôi. Giờ đây, đến thăm lại nơi Bác làm việc trong những ngày đầu cách mạng ở tầng hai ngôi nhà 48 Hàng Ngang mà gia đình tôi đã hiến cho Nhà nước, tôi như thấy Bác đang ngồi kia vạch đường chỉ lối, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến bến bờ vinh quang, hạnh phúc".
(Theo Quân Đội Nhân Dân)

hanvanhuynh
02-12-2006, 03:56 PM
Chủ đề này thì pó tay các bác ạ. Chắc vĩnh viễn không còn tuyên ngôn nữa đầu. Nước CHXHCN Việt Nam muôn năm mà.
không nhàn mà đàm đàm. em ngược:-h