Jimmy Page
01-12-2006, 04:45 PM
Bob Dylan sinh ngày 24/05/1941, tại Duluth, Minnesota, nước Mỹ. Ông tên thật là Robert Allen Zimmerman và không có gì để nghi ngờ việc ông là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất đến lịch sử của âm nhạc. Ông là tác giả của rất nhiều bài hát kinh điển và được tôn vinh là người đã đem đến “nét văn hoá” cho lời hát của những giai điệu rock.
Là con trai của một người chủ cửa hàng điện tử và đồ trang trí nội thất, khi đang ở tuổi niên thiếu và đang sống tại Hibbing, Minnesota, ông đã bị hấp dẫn bởi sự lãng mạn của thế giới bên ngoài. Ông yêu thích những bộ phim của James Dean, thích cưỡi xe gắn máy và thả hồn theo những giai điệu R&B trên đài phát thanh miền nam. Là một fan hâm mộ cuồng nhịêt của ca sĩ nhạc folk Odetta và huyền thoại nhạc country Hank Williams, ông cũng bị quyến rũ bởi những giai điệu rock ‘n’ roll của thửơ sơ khai.
Khi ông bắt đầu chơi nhạc với bạn học trong các ban nhạc Golden Chords và Elston Gunn And The Rock Boppers, ông là một tay piano vụng về nhưng rất nhiệt tình. Cũng vào thời gian này ông công khai tham vọng của mình trong cuốn sách của trường “to join Little Richard”. Năm 1959, ông đến thăm Minneapolis vào những dịp cuối tuần và khi tốt nghiệp trung học, ông ghi tên vào trường đại học Minnesota. Mặc dù vậy, phần lớn thời gian của mình ông dành cho việc kết giao với những nhạc sĩ địa phương ở các những quán cà phê trong khu vực Dinkytown.
Ở Minneapolis, lần đầu tiên ông khám phá ra nhạc blues, và ông bắt đầu kết hợp các giai điệu blues với những chất liệu cổ truyền căn bản để tạo nên vốn liếng (tiết mục diễn) cho một ca sĩ nhạc folk tập sự như ông. Ông đổi tên mình thành Bob Dylan, chơi nhạc thường xuyên trong các câu lạc bộ địa phương, rất tự tin nhưng không lấy gì làm nổi bật.
Mùa hè 1960, Dylan dành một ít thời gian ở Denver, và ông đã phát triển thành một nghệ sĩ thực thụ qua những cách thức khác thường nhưng thực sự quan trọng đối với cuộc đời nghệ thuật của ông sau này.
Đầu tiên, ông bắt chước cá tính của nhân vật lãng tử Woody Guthrie trong bộ phim Bound For Glory. Trước đó, Dylan đã được học về Guthrie ở trường Minnesota và đã nhanh chóng đọc ngấu nghiến cũng như cố gắng nhồi nhét, học thuộc thật nhiều bài hát của Guthrie. Ở Denver, ông bắt đầu nói bằng giọng mũi Okie, và thử nghiệm một hình tượng mới “bụi bặm, rày đây mai đó”.
Thứ hai, một duyên may đã giúp Dylan đã gặp Jesse Fuller, người trình diễn blues đồng thời bằng đàn guitar và kèn harmonica nhờ vào một cái giá đàn hạc. Dylan đã suy nghĩ rất nhiều khi nhìn thấy kỹ thuật biểu diễn đó của Fuller và cuối cùng ông quyết định tự học để cũng có thể làm được như vậy. Khi ông trở về lại Minneapolis, ông đã phát triển được rất nhiều kỹ năng của một nghệ sĩ trình diễn. Lúc này ông cũng hoàn toàn chắc chắn việc mình sẽ kiếm sống bằng việc trở thành một nghệ sĩ chuyên nghiệp, ông quay trở về Hibbing trong một thời gian ngắn, và ngày 24/01/1961 ông có mặt ở New York.
Ở New York, dù vẫn chỉ là một người trình diễn không chuyên và hoàn toàn chưa được biết đến, nhưng ảnh hưởng của Dylan đến hoạt động của nền âm nhạc folk ở thị trấn Greenwich là ngay lập tức và vô cùng to lớn. Ông cuốn hút bất cứ ai với sự năng nổ, đáng tin cậy của mình. Ông chơi nhạc trong những quán cà phê của thị trấn, bao gồm Cafe Wha?, The Commons, The Gaslight và quan trọng hơn cả là ở Gerde's Folk City, nơi ông có buổi trình diễn chuyên nghiệp đầu tiên của mình, phụ hoạ cho ca sĩ nổi tiếng John Lee Hooker, vào tháng 04/1961.
Ông cũng được mời chơi kèn harmonica trong album của Harry Belafonte và Carolyn Hester sau khi ông được nhà sản xuất John Hammond để ý. Chính John đã giúp ông ký được hợp đồng với hãng Columbia Records vào mùa thu năm 1961. Cũng ở thời điểm này, sau khi xem một buổi trình diễn của ông tại quán Gerde's Folk City, Robert Shelton phóng viên tờ thời báo New York Times đã bày tỏ quan điểm của mình rằng Bob Dylan sẽ là một ngôi sao sáng chói trên bầu trời nghệ thuật.
Một sự nghiệp nhiều .. trắc trở
Album đầu tiên của ông, với tên gọi đơn giản là Bob Dylan được phát hành tháng 03/1962. Album là một tuyển tập những bản folk và blues chuẩn mực, thường là nói về cái chết và những nỗi đau cùng sự trải nghiệm trong cuộc sống; đó là những bản nhạc đã nằm trong hành trang suốt những năm lận đận với nghề trước đó của Dylan. Trong vài tháng sau đó, Dylan đã viết hàng tá nhạc phẩm, nhiều bản trong số đó mang tính chất thời sự.
Được khuyến khích bởi người bạn gái Suze Rotolo, Dylan trở nên rất có hứng thú và rồi sau đó thì đi theo làn sóng đấu tranh nhân quyền Civil Rights. Bài hát "Blowin' In The Wind', được ông viết vào tháng 04/1962 trở thành bài hát nổi tiếng nhất trong số những bài hát mang tính phản chiến của ông và được đưa vào album thứ hai The Freewheelin" Bob Dylan, phát hành tháng 05/1963. Cũng trong lúc này, Dylan đã viết và ghi âm nhiều bản nhạc mang tính chính trị rất đáng chú ý như "Masters Of War" và "A Hard Rain's A-Gonna Fall", và, trong suốt thời gian 9 tháng trời xa cách Suze, ông đã viết nên bản tình ca "Don't Think Twice, It's All Right", một trong những bản nhạc thành công nhất của ông.
Cuối năm 1962, ông ghi âm đĩa single với bản nhạc "Mixed Up Confusion" mang phong cách rock 'n' roll với sự góp mặt của những nghệ sĩ khác. Nhưng single này nhanh chóng bị huỷ bỏ bởi vì Albert Grossman, nhà quản lý của Dylan, nhìn thấy con đường thành công trước mắt của Dylan không phải là đi theo bước chân của một rocker, mà là như một nghệ sĩ folk chân chính không sử dụng nhạc cụ điện. Tương tự, những đĩa nhạc mà Dylan đã ghi âm cho album thứ hai của mình với cung cách tương tự cũng bị loại ra khỏi album.
Bản nhạc The Freewheelin" của Dylan chỉ đến sau khi bốn bản nhạc trước bị loại bỏ lần lựơt từng bài một để thay thế bằng bản nhạc mới hơn. Một trong số những bản bị bỏ qua đó là "Talking John Birch Society Blues" mà Dylan đã bị cấm trình diễn kể từ sau khi ông đưa nó ra mắt trong chương trình Ed Sullivan Show vào tháng 05/1963. Dù đã trở thành một giọng ca mới cấp tiến nhưng sự tiến triển đó của Dylan không gây được sự chú ý lắm. Vào lúc ấy, Grossman đã có một quyết định khôn ngoan là để Dylan thực hiện một bản cover lại của "Blowin' In The Wind" (Peter, Paul And Mary) và nó đã đem lại hiệu quả. Bản cover trở thành một bản hit lớn trên khắp nước Mỹ, đưa tên tuổi của Dylan lần đầu tiên lên tầm quốc gia, và thậm chí là quốc tế.
Cũng vào cuối năm 1962, Dylan đã bay đến Luân Đôn để xuất hiện trong The Madhouse On Castle Street của kênh truyền hình BBC. Việc đó tuy không đóng góp được nhiều cho sự nghiệp diễn xuất của Dylan, nhưng trong thời gian lưu lại Luân Đôn, Dylan đã học được nhiều bản nhạc folk của Anh, đặc biệt là của nghệ sĩ Martin Carthy, trở thành nguồn cảm hứng cho những giai địêu sau này của ông. Nhờ vậy mà ông đã có được những bài hát như "Girl From The North Country" (phỏng theo "Scarborough Fair"), "Bob Dylan's 'Dream" (theo "Lord Franklin"), và "Masters Of War" (theo "Nottamun Town"). Các bài hát tiếp tục tuôn chảy ra và Dylan bắt đầu sắp xếp chúng lại để ghi âm.
Đây cũng là thời gian mà Joan Baez bắt đầu nổi lên giữ vai trò quan trọng trong cuộc đời của Dylan. Là một ca sĩ hát nhạc folk đã thành danh, Baez cover lại những bài hát của Dylan, và không bỏ lỡ một cơ hội nào để giới thiệu tài năng của Dylan. Không lâu sau đó, bà giới thiệu ông với những khán giả của mình và cả hai như một cặp tình nhân, trở thành ông hoàng và bà hòang nhạc nhạc folk. Những bản nhạc do Dylan sáng tác ngày càng sắc sảo, sâu sắc và cũng dài dòng hơn theo thời gian. Biblical và nhiều hình tượng văn học khác được Dylan đưa vào âm nhạc của mình, trong “When The Ship Comes In” và “Times They Are A-Changin’”.
“Times They Are A-Changin’” đã được Dylan sáng tác chỉ một hay hai ngày sau khi ông đã hát vang bài “Only A Pawn In Their Game" trước 400.000 khán giả tại buổi diễu hành ở Washing ngày 28/08/1963. Ngay sau ngày Dylan đọc được một bài báo trên tờ báo địa phương về vụ sát hại cô hầu bàn da đen Hattie Carroll, ông đã có cảm hứng để sáng tác bài hát mang tính phản kháng hay nhất của ông, “The Lonesome Death Of Hattie Carroll”, một bài hát được cho là bài hát phản chiến cuối cùng của Dylan. Bài hát được phát hành trong album thứ ba của ông, The Times They Are A-Changin’, tháng 01/1964.
Năm 1964 là năm có những thay đổi lớn trong những sáng tác của Dylan. Lúc này khi đã hoàn toàn chia tay với Suez Rotolo, tỉnh ngộ, hết ảo tưởng với sự bẩn thỉu của nền chính trị tại Village, và với sự nản lòng ngày càng tăng cao trong vai trò một “phát ngôn viên của một thế hệ”, con người chưa từng ngơi nghỉ của Dylan lại lột xác, thoát ra ngoài sự kỳ vọng của đám đông khán giả ái mộ dòng nhạc folk cũ kỹ, và dưới ảnh hưởng của những tác phẩm thơ của John Keats và nhà văn theo trường phái tượng trưng Arthur Rimbaud, Dylan bắt đầu mở rộng sự hiểu biết của mình đối với thi ca.
Ông bắt tay vào việc sáng tác những bản nhạc mới cho album thứ tư của mình, Another Side Of Bob Dylan. Trong album đó người nghe có thể cảm nhận được sự chối bỏ quá khứ của Dylan trong “My Back Pages” và “Chimes Of Freedom”-- trong khi ở những bản nhạc sau này như “Mr Tambourine Man” (bản nhạc này đã được ông ghi âm vào thời điểm này nhưng không được sử dụng trong Another Side), “Gates Of Eden” và “It's Alright Ma, I'm Only Bleeding”, ông lại không chối bỏ chúng nữa -- ông đã đưa chúng vào trong những buổi diễn của mình vài tuần sau đó, làm kinh ngạc người nghe với những sự phức tạp trong ca từ và tinh tế trong văn chương.
Giờ chúng ta lại có một Bob Dylan – nhạc sĩ, khởi nguồn cho những tranh luận về các giá trị liên quan giữa nghệ thuật cao và nghệ thuật phổ thông. Thời gian từ 1964-66 không nghi ngờ gì là thời gian thành công nhất của Dylan trong cả hai vai trò nhạc sĩ và ca sĩ; đó cũng là những năm có ảnh hưởng nhất của Dylan và nhiều nghệ sĩ ngày nay vẫn còn xem ba album của ông trong thời gian này: Bringing It All Back Home và Highway 61 Revisited (1965) cùng album đôi Blonde On Blonde (1966) như là nhân tố ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển nghệ thuật của chính họ.
Another Side Of Bob Dylan là album solo cuối cùng của Dylan trong suốt 30 năm. Ngạc nhiên trước những gì ban nhạc Beatles đã làm được – ông đã đến London một lần nữa để trình diễn tại Royal Festival Hall vào tháng 05/1964 – và đã đặc biệt bị lôi cuốn bởi ban nhạc Animals khi họ cover lại bản folk-rock “House Of The Rising Sun”, một bản nhạc mà chính Dylan cũng từng trình bày trong album đầu tiên của ông. Nhờ cảm hứng từ Animals mà sau đó, ông và nhà sản xuất Tom Wilson đã gia cố thêm cho vài bài hát trong số Bringing It All Back Home với phần đệm mang âm hưởng rock ‘n’ roll, chẳng hạn như các bài “Subterranean Homesick Blues” và “Maggies’s Farm”
Tuy nhiên, bài hát quan trọng nhất của Dylan trong giữa những năm 1960 là bản nhạc “Like A Rolling Stone” được viết ngay sau chuyến lưu diễn vòng quanh các buổi hoà nhạc ở Anh trong tháng 04 và 05/1965, sau này được nhắc đến trong bộ phim tài liệu nổi tiếng của D.A. Pennebaker, Don’t Look Back. Dylan nói rằng ông bắt đầu viết “Like A Rolling Stone” với ý định sẽ từ bỏ việc ca hát và chơi nhạc. Ca từ trong bài nhạc lấy cảm hứng từ sáu trang giấy tuôn ra từ mạch ý thức, là tiếng nói của một con người đơn độc nổi bật trên nền nhạc là sự kết hợp bất hủ giữa nghệ sĩ guitar của nhạc blues Chicago Michael Bloomfield, bass Harvey Brooks và nghệ sĩ organ trẻ Al Kooper. Like A Rolling Stone” là tác phẩm cuối cùng của nhà sản xuất Tom Wilson, và cũng là bản nhạc xuất sắc nhất của Dylan. Với độ dài sáu phút, nó đã phá vỡ công thức chỉ được dài dưới 3 phút cho một bản single từ trước đến nay. Nó là bản nhạc thành công rực rỡ và nó đã được phát trên tất cả các đài phát thanh trong suốt mùa hè năm 1965 cùng với “Mr Tambourine Man” của Byrds.
Vì vậy, những người đến xem Dylan biểu diễn tại buổi lễ hội Newport Folk Festival ngày 25/07/1965 đáng ra chẳng có gì phải ngạc nhiên trước hình ảnh mới của ông - một rocker chuyên trị nhạc folk đã hoàn toàn đủ lông đủ cánh - nhưng hình như họ lại thực sự có một phen sửng sốt. Được hỗ trợ bởi ban nhạc Paul Butterfield Blues, thứ âm nhạc được cho là âm nhạc mới của Dylan này gặp phải một làn sóng bối rối, hoang mang và một thái độ thù địch, chống đối dù cho đó chỉ là lần trình diễn đầu tiên của ông với sự hỗ trợ của một ban nhạc khác.
Những câu chuyện sau đó xoay quanh việc Dylan đã bị khán giả la ó, phản đối như thế nào đêm trình diễn đó, và tại sao lại như vậy nhưng Dylan hình như rất có kinh nghiệm và bản lĩnh khi ông tỏ ra không hề nao núng. Nếu như sau khi trở về từ chuyến lưu diễn đến nước Anh, ông hầu như cảm thấy đã sẵn sàng để từ bỏ thì giờ đây ông lại đang sẵn sàng cho một sự khởi đầu mới, đi lưu diễn với một ban nhạc và đem âm nhạc cũng như chính bản thân ông đến với những miền xa nhất cũng như Rimbaud đã từng làm.
Sự phát hiện ra Hawks - ban nhạc Canada từng lưu diễn tại các nhà trọ và quán rượu trước khi được John Hammond Jnr. và Mary Martin, cô thư ký của Albert Grossman tiến cử - là một trong những điều kỳ diệu đã xảy ra. The Hawks, sau này trở thành the Band, bao gồm các thành viên Robbie Robertson, Richard Manuel, Garth Hudson, Rick Danko và Levon Helm. Những bài hát của Dylan và âm nhạc của the Hawks dường như được sinh ra để thuộc về nhau. Sau hai buổi trình diễn khởi động đầy sóng gió, họ lên đường lưu diễn khắp nước Mỹ, qua Hawai đến Úc, rồi Scandinavia và cuối cùng là Anh quốc, rồi đáp một chuyến bay nhanh đến Paris để kỷ niệm ngày sinh nhật trong tháng 05/1966.
Là con trai của một người chủ cửa hàng điện tử và đồ trang trí nội thất, khi đang ở tuổi niên thiếu và đang sống tại Hibbing, Minnesota, ông đã bị hấp dẫn bởi sự lãng mạn của thế giới bên ngoài. Ông yêu thích những bộ phim của James Dean, thích cưỡi xe gắn máy và thả hồn theo những giai điệu R&B trên đài phát thanh miền nam. Là một fan hâm mộ cuồng nhịêt của ca sĩ nhạc folk Odetta và huyền thoại nhạc country Hank Williams, ông cũng bị quyến rũ bởi những giai điệu rock ‘n’ roll của thửơ sơ khai.
Khi ông bắt đầu chơi nhạc với bạn học trong các ban nhạc Golden Chords và Elston Gunn And The Rock Boppers, ông là một tay piano vụng về nhưng rất nhiệt tình. Cũng vào thời gian này ông công khai tham vọng của mình trong cuốn sách của trường “to join Little Richard”. Năm 1959, ông đến thăm Minneapolis vào những dịp cuối tuần và khi tốt nghiệp trung học, ông ghi tên vào trường đại học Minnesota. Mặc dù vậy, phần lớn thời gian của mình ông dành cho việc kết giao với những nhạc sĩ địa phương ở các những quán cà phê trong khu vực Dinkytown.
Ở Minneapolis, lần đầu tiên ông khám phá ra nhạc blues, và ông bắt đầu kết hợp các giai điệu blues với những chất liệu cổ truyền căn bản để tạo nên vốn liếng (tiết mục diễn) cho một ca sĩ nhạc folk tập sự như ông. Ông đổi tên mình thành Bob Dylan, chơi nhạc thường xuyên trong các câu lạc bộ địa phương, rất tự tin nhưng không lấy gì làm nổi bật.
Mùa hè 1960, Dylan dành một ít thời gian ở Denver, và ông đã phát triển thành một nghệ sĩ thực thụ qua những cách thức khác thường nhưng thực sự quan trọng đối với cuộc đời nghệ thuật của ông sau này.
Đầu tiên, ông bắt chước cá tính của nhân vật lãng tử Woody Guthrie trong bộ phim Bound For Glory. Trước đó, Dylan đã được học về Guthrie ở trường Minnesota và đã nhanh chóng đọc ngấu nghiến cũng như cố gắng nhồi nhét, học thuộc thật nhiều bài hát của Guthrie. Ở Denver, ông bắt đầu nói bằng giọng mũi Okie, và thử nghiệm một hình tượng mới “bụi bặm, rày đây mai đó”.
Thứ hai, một duyên may đã giúp Dylan đã gặp Jesse Fuller, người trình diễn blues đồng thời bằng đàn guitar và kèn harmonica nhờ vào một cái giá đàn hạc. Dylan đã suy nghĩ rất nhiều khi nhìn thấy kỹ thuật biểu diễn đó của Fuller và cuối cùng ông quyết định tự học để cũng có thể làm được như vậy. Khi ông trở về lại Minneapolis, ông đã phát triển được rất nhiều kỹ năng của một nghệ sĩ trình diễn. Lúc này ông cũng hoàn toàn chắc chắn việc mình sẽ kiếm sống bằng việc trở thành một nghệ sĩ chuyên nghiệp, ông quay trở về Hibbing trong một thời gian ngắn, và ngày 24/01/1961 ông có mặt ở New York.
Ở New York, dù vẫn chỉ là một người trình diễn không chuyên và hoàn toàn chưa được biết đến, nhưng ảnh hưởng của Dylan đến hoạt động của nền âm nhạc folk ở thị trấn Greenwich là ngay lập tức và vô cùng to lớn. Ông cuốn hút bất cứ ai với sự năng nổ, đáng tin cậy của mình. Ông chơi nhạc trong những quán cà phê của thị trấn, bao gồm Cafe Wha?, The Commons, The Gaslight và quan trọng hơn cả là ở Gerde's Folk City, nơi ông có buổi trình diễn chuyên nghiệp đầu tiên của mình, phụ hoạ cho ca sĩ nổi tiếng John Lee Hooker, vào tháng 04/1961.
Ông cũng được mời chơi kèn harmonica trong album của Harry Belafonte và Carolyn Hester sau khi ông được nhà sản xuất John Hammond để ý. Chính John đã giúp ông ký được hợp đồng với hãng Columbia Records vào mùa thu năm 1961. Cũng ở thời điểm này, sau khi xem một buổi trình diễn của ông tại quán Gerde's Folk City, Robert Shelton phóng viên tờ thời báo New York Times đã bày tỏ quan điểm của mình rằng Bob Dylan sẽ là một ngôi sao sáng chói trên bầu trời nghệ thuật.
Một sự nghiệp nhiều .. trắc trở
Album đầu tiên của ông, với tên gọi đơn giản là Bob Dylan được phát hành tháng 03/1962. Album là một tuyển tập những bản folk và blues chuẩn mực, thường là nói về cái chết và những nỗi đau cùng sự trải nghiệm trong cuộc sống; đó là những bản nhạc đã nằm trong hành trang suốt những năm lận đận với nghề trước đó của Dylan. Trong vài tháng sau đó, Dylan đã viết hàng tá nhạc phẩm, nhiều bản trong số đó mang tính chất thời sự.
Được khuyến khích bởi người bạn gái Suze Rotolo, Dylan trở nên rất có hứng thú và rồi sau đó thì đi theo làn sóng đấu tranh nhân quyền Civil Rights. Bài hát "Blowin' In The Wind', được ông viết vào tháng 04/1962 trở thành bài hát nổi tiếng nhất trong số những bài hát mang tính phản chiến của ông và được đưa vào album thứ hai The Freewheelin" Bob Dylan, phát hành tháng 05/1963. Cũng trong lúc này, Dylan đã viết và ghi âm nhiều bản nhạc mang tính chính trị rất đáng chú ý như "Masters Of War" và "A Hard Rain's A-Gonna Fall", và, trong suốt thời gian 9 tháng trời xa cách Suze, ông đã viết nên bản tình ca "Don't Think Twice, It's All Right", một trong những bản nhạc thành công nhất của ông.
Cuối năm 1962, ông ghi âm đĩa single với bản nhạc "Mixed Up Confusion" mang phong cách rock 'n' roll với sự góp mặt của những nghệ sĩ khác. Nhưng single này nhanh chóng bị huỷ bỏ bởi vì Albert Grossman, nhà quản lý của Dylan, nhìn thấy con đường thành công trước mắt của Dylan không phải là đi theo bước chân của một rocker, mà là như một nghệ sĩ folk chân chính không sử dụng nhạc cụ điện. Tương tự, những đĩa nhạc mà Dylan đã ghi âm cho album thứ hai của mình với cung cách tương tự cũng bị loại ra khỏi album.
Bản nhạc The Freewheelin" của Dylan chỉ đến sau khi bốn bản nhạc trước bị loại bỏ lần lựơt từng bài một để thay thế bằng bản nhạc mới hơn. Một trong số những bản bị bỏ qua đó là "Talking John Birch Society Blues" mà Dylan đã bị cấm trình diễn kể từ sau khi ông đưa nó ra mắt trong chương trình Ed Sullivan Show vào tháng 05/1963. Dù đã trở thành một giọng ca mới cấp tiến nhưng sự tiến triển đó của Dylan không gây được sự chú ý lắm. Vào lúc ấy, Grossman đã có một quyết định khôn ngoan là để Dylan thực hiện một bản cover lại của "Blowin' In The Wind" (Peter, Paul And Mary) và nó đã đem lại hiệu quả. Bản cover trở thành một bản hit lớn trên khắp nước Mỹ, đưa tên tuổi của Dylan lần đầu tiên lên tầm quốc gia, và thậm chí là quốc tế.
Cũng vào cuối năm 1962, Dylan đã bay đến Luân Đôn để xuất hiện trong The Madhouse On Castle Street của kênh truyền hình BBC. Việc đó tuy không đóng góp được nhiều cho sự nghiệp diễn xuất của Dylan, nhưng trong thời gian lưu lại Luân Đôn, Dylan đã học được nhiều bản nhạc folk của Anh, đặc biệt là của nghệ sĩ Martin Carthy, trở thành nguồn cảm hứng cho những giai địêu sau này của ông. Nhờ vậy mà ông đã có được những bài hát như "Girl From The North Country" (phỏng theo "Scarborough Fair"), "Bob Dylan's 'Dream" (theo "Lord Franklin"), và "Masters Of War" (theo "Nottamun Town"). Các bài hát tiếp tục tuôn chảy ra và Dylan bắt đầu sắp xếp chúng lại để ghi âm.
Đây cũng là thời gian mà Joan Baez bắt đầu nổi lên giữ vai trò quan trọng trong cuộc đời của Dylan. Là một ca sĩ hát nhạc folk đã thành danh, Baez cover lại những bài hát của Dylan, và không bỏ lỡ một cơ hội nào để giới thiệu tài năng của Dylan. Không lâu sau đó, bà giới thiệu ông với những khán giả của mình và cả hai như một cặp tình nhân, trở thành ông hoàng và bà hòang nhạc nhạc folk. Những bản nhạc do Dylan sáng tác ngày càng sắc sảo, sâu sắc và cũng dài dòng hơn theo thời gian. Biblical và nhiều hình tượng văn học khác được Dylan đưa vào âm nhạc của mình, trong “When The Ship Comes In” và “Times They Are A-Changin’”.
“Times They Are A-Changin’” đã được Dylan sáng tác chỉ một hay hai ngày sau khi ông đã hát vang bài “Only A Pawn In Their Game" trước 400.000 khán giả tại buổi diễu hành ở Washing ngày 28/08/1963. Ngay sau ngày Dylan đọc được một bài báo trên tờ báo địa phương về vụ sát hại cô hầu bàn da đen Hattie Carroll, ông đã có cảm hứng để sáng tác bài hát mang tính phản kháng hay nhất của ông, “The Lonesome Death Of Hattie Carroll”, một bài hát được cho là bài hát phản chiến cuối cùng của Dylan. Bài hát được phát hành trong album thứ ba của ông, The Times They Are A-Changin’, tháng 01/1964.
Năm 1964 là năm có những thay đổi lớn trong những sáng tác của Dylan. Lúc này khi đã hoàn toàn chia tay với Suez Rotolo, tỉnh ngộ, hết ảo tưởng với sự bẩn thỉu của nền chính trị tại Village, và với sự nản lòng ngày càng tăng cao trong vai trò một “phát ngôn viên của một thế hệ”, con người chưa từng ngơi nghỉ của Dylan lại lột xác, thoát ra ngoài sự kỳ vọng của đám đông khán giả ái mộ dòng nhạc folk cũ kỹ, và dưới ảnh hưởng của những tác phẩm thơ của John Keats và nhà văn theo trường phái tượng trưng Arthur Rimbaud, Dylan bắt đầu mở rộng sự hiểu biết của mình đối với thi ca.
Ông bắt tay vào việc sáng tác những bản nhạc mới cho album thứ tư của mình, Another Side Of Bob Dylan. Trong album đó người nghe có thể cảm nhận được sự chối bỏ quá khứ của Dylan trong “My Back Pages” và “Chimes Of Freedom”-- trong khi ở những bản nhạc sau này như “Mr Tambourine Man” (bản nhạc này đã được ông ghi âm vào thời điểm này nhưng không được sử dụng trong Another Side), “Gates Of Eden” và “It's Alright Ma, I'm Only Bleeding”, ông lại không chối bỏ chúng nữa -- ông đã đưa chúng vào trong những buổi diễn của mình vài tuần sau đó, làm kinh ngạc người nghe với những sự phức tạp trong ca từ và tinh tế trong văn chương.
Giờ chúng ta lại có một Bob Dylan – nhạc sĩ, khởi nguồn cho những tranh luận về các giá trị liên quan giữa nghệ thuật cao và nghệ thuật phổ thông. Thời gian từ 1964-66 không nghi ngờ gì là thời gian thành công nhất của Dylan trong cả hai vai trò nhạc sĩ và ca sĩ; đó cũng là những năm có ảnh hưởng nhất của Dylan và nhiều nghệ sĩ ngày nay vẫn còn xem ba album của ông trong thời gian này: Bringing It All Back Home và Highway 61 Revisited (1965) cùng album đôi Blonde On Blonde (1966) như là nhân tố ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển nghệ thuật của chính họ.
Another Side Of Bob Dylan là album solo cuối cùng của Dylan trong suốt 30 năm. Ngạc nhiên trước những gì ban nhạc Beatles đã làm được – ông đã đến London một lần nữa để trình diễn tại Royal Festival Hall vào tháng 05/1964 – và đã đặc biệt bị lôi cuốn bởi ban nhạc Animals khi họ cover lại bản folk-rock “House Of The Rising Sun”, một bản nhạc mà chính Dylan cũng từng trình bày trong album đầu tiên của ông. Nhờ cảm hứng từ Animals mà sau đó, ông và nhà sản xuất Tom Wilson đã gia cố thêm cho vài bài hát trong số Bringing It All Back Home với phần đệm mang âm hưởng rock ‘n’ roll, chẳng hạn như các bài “Subterranean Homesick Blues” và “Maggies’s Farm”
Tuy nhiên, bài hát quan trọng nhất của Dylan trong giữa những năm 1960 là bản nhạc “Like A Rolling Stone” được viết ngay sau chuyến lưu diễn vòng quanh các buổi hoà nhạc ở Anh trong tháng 04 và 05/1965, sau này được nhắc đến trong bộ phim tài liệu nổi tiếng của D.A. Pennebaker, Don’t Look Back. Dylan nói rằng ông bắt đầu viết “Like A Rolling Stone” với ý định sẽ từ bỏ việc ca hát và chơi nhạc. Ca từ trong bài nhạc lấy cảm hứng từ sáu trang giấy tuôn ra từ mạch ý thức, là tiếng nói của một con người đơn độc nổi bật trên nền nhạc là sự kết hợp bất hủ giữa nghệ sĩ guitar của nhạc blues Chicago Michael Bloomfield, bass Harvey Brooks và nghệ sĩ organ trẻ Al Kooper. Like A Rolling Stone” là tác phẩm cuối cùng của nhà sản xuất Tom Wilson, và cũng là bản nhạc xuất sắc nhất của Dylan. Với độ dài sáu phút, nó đã phá vỡ công thức chỉ được dài dưới 3 phút cho một bản single từ trước đến nay. Nó là bản nhạc thành công rực rỡ và nó đã được phát trên tất cả các đài phát thanh trong suốt mùa hè năm 1965 cùng với “Mr Tambourine Man” của Byrds.
Vì vậy, những người đến xem Dylan biểu diễn tại buổi lễ hội Newport Folk Festival ngày 25/07/1965 đáng ra chẳng có gì phải ngạc nhiên trước hình ảnh mới của ông - một rocker chuyên trị nhạc folk đã hoàn toàn đủ lông đủ cánh - nhưng hình như họ lại thực sự có một phen sửng sốt. Được hỗ trợ bởi ban nhạc Paul Butterfield Blues, thứ âm nhạc được cho là âm nhạc mới của Dylan này gặp phải một làn sóng bối rối, hoang mang và một thái độ thù địch, chống đối dù cho đó chỉ là lần trình diễn đầu tiên của ông với sự hỗ trợ của một ban nhạc khác.
Những câu chuyện sau đó xoay quanh việc Dylan đã bị khán giả la ó, phản đối như thế nào đêm trình diễn đó, và tại sao lại như vậy nhưng Dylan hình như rất có kinh nghiệm và bản lĩnh khi ông tỏ ra không hề nao núng. Nếu như sau khi trở về từ chuyến lưu diễn đến nước Anh, ông hầu như cảm thấy đã sẵn sàng để từ bỏ thì giờ đây ông lại đang sẵn sàng cho một sự khởi đầu mới, đi lưu diễn với một ban nhạc và đem âm nhạc cũng như chính bản thân ông đến với những miền xa nhất cũng như Rimbaud đã từng làm.
Sự phát hiện ra Hawks - ban nhạc Canada từng lưu diễn tại các nhà trọ và quán rượu trước khi được John Hammond Jnr. và Mary Martin, cô thư ký của Albert Grossman tiến cử - là một trong những điều kỳ diệu đã xảy ra. The Hawks, sau này trở thành the Band, bao gồm các thành viên Robbie Robertson, Richard Manuel, Garth Hudson, Rick Danko và Levon Helm. Những bài hát của Dylan và âm nhạc của the Hawks dường như được sinh ra để thuộc về nhau. Sau hai buổi trình diễn khởi động đầy sóng gió, họ lên đường lưu diễn khắp nước Mỹ, qua Hawai đến Úc, rồi Scandinavia và cuối cùng là Anh quốc, rồi đáp một chuyến bay nhanh đến Paris để kỷ niệm ngày sinh nhật trong tháng 05/1966.