ToanA4_03_06
05-12-2006, 07:53 PM
Trong khi quy mô đào tạo ĐH 5 năm nay tăng 41% thì cơ sở vật chất, đặc biệt là số lượng cũng như chất lượng giảng viên (GV) không tăng kịp.
5 năm phấn đấu vẫn nguyên chỗ cũ
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 được Chính phủ phê duyệt năm 2001, nêu rõ: “Khẩn trương đào tạo, bổ sung và nâng cao trình độ đội ngũ GV ĐH, CĐ để giảm tỉ lệ trung bình sinh viên (SV)/mỗi giảng viên đang quá cao hiện nay là 30 xuống 20, trong đó 10-15 đối với các ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ, 20-25 đối với các ngành khoa học xã hội và nhân văn, các ngành kinh tế".
Tuy nhiên, tính đến năm 2006, tổng số SV trong cả nước là 1.387.107 người, trong khi tổng số GV là 48.579, tức tỉ lệ SV/ GV là 28,55. Như vậy, 5 năm qua tỉ lệ SV/GV vẫn còn ở mức cao.
Theo PGS-TS Thái Bá Cần, Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, số SV trong từng lớp cao dẫn đến việc trao đổi, phản hồi giữa SV và GV hạn chế. GV chỉ thực hiện việc giảng bài mà không nắm được tình hình học tập của SV.
Về chất lượng, tính đến năm 2006, tỉ lệ GV có chức danh GS, PGS là 5,26%; có trình độ TS, TSKH là 12,43%; có trình độ thạc sĩ (ThS) là 32,26%. Trong khi quy định, mục tiêu cần đạt đến năm 2010 là 25% GV có trình độ TS, TSKH và 40% có trình độ ThS.
Về phân bố, số lượng GV có chức danh GS, PGS, trình độ TS, TSKH dồn về 14 trường ĐH trọng điểm, chiếm gần 50% lực lượng GV cả nước. Ở khối các trường CĐ, tỉ lệ này đều rất thấp. Trong hầu hết các trường CĐ, đội ngũ cán bộ giảng dạy không chỉ thiếu về số lượng, mà còn không chuẩn hóa về trình độ. Tỉ lệ GV có trình độ ThS, TS rất thấp, chủ yếu là ThS, TS quản lý giáo dục mà không phải ThS, TS chuyên ngành.
ĐH dân lập: Thiếu GV trầm trọng
Tình hình GV ở các trường ĐH dân lập (DL) còn khủng hoảng hơn. Theo quy định, GV cơ hữu ở các trường ĐH DL phải đạt 50% trong tổng số GV. Thực tế, dù đã phấn đấu nhiều nhưng đối với các trường ĐH DL điều này vẫn còn quá xa vời.
19 trường ĐH DL trong cả nước có số GV cơ hữu là 1.664/5.012 GV. Trường ĐH DL Văn Hiến có 28 GV cơ hữu, Trường ĐH DL Hồng Bàng: 4, Trường ĐH DL Hùng Vương: 43...
Do nhiều nguyên nhân, các trường ĐH DL khó thu hút GV có học hàm, học vị. Số lượng GS, PGS cũng như TS ở 19 trường ĐH DL rất hiếm hoi. 7/19 trường “trắng” GS. Các trường ĐH DL Phương Đông, Văn Lang, Bình Dương, Lạc Hồng, Cửu Long mỗi trường đều chỉ có một GS...
Để có một GV cơ hữu, trung bình các trường phải trả mức lương trên dưới 2 triệu đồng/tháng và nhiều nghĩa vụ khác đối với người lao động theo quy định (bảo hiểm, lương tháng 13).
Trong khi, sử dụng GV thỉnh giảng, xong tiết nào, trả tiền tiết đó, gọn nhẹ (thấp nhất khoảng 25.000 đồng/tiết thực hành, 40.000 đồng/tiết lý thuyết, cao nhất là khoảng 150.000 đồng/tiết đối với GV có học hàm, học vị). Việc sử dụng nhiều GV thỉnh giảng của các trường ĐH DL vô hình trung đã làm tăng giờ giảng của GV các trường ĐH công lập vốn đã cao càng cao hơn.
5 năm phấn đấu vẫn nguyên chỗ cũ
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 được Chính phủ phê duyệt năm 2001, nêu rõ: “Khẩn trương đào tạo, bổ sung và nâng cao trình độ đội ngũ GV ĐH, CĐ để giảm tỉ lệ trung bình sinh viên (SV)/mỗi giảng viên đang quá cao hiện nay là 30 xuống 20, trong đó 10-15 đối với các ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ, 20-25 đối với các ngành khoa học xã hội và nhân văn, các ngành kinh tế".
Tuy nhiên, tính đến năm 2006, tổng số SV trong cả nước là 1.387.107 người, trong khi tổng số GV là 48.579, tức tỉ lệ SV/ GV là 28,55. Như vậy, 5 năm qua tỉ lệ SV/GV vẫn còn ở mức cao.
Theo PGS-TS Thái Bá Cần, Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, số SV trong từng lớp cao dẫn đến việc trao đổi, phản hồi giữa SV và GV hạn chế. GV chỉ thực hiện việc giảng bài mà không nắm được tình hình học tập của SV.
Về chất lượng, tính đến năm 2006, tỉ lệ GV có chức danh GS, PGS là 5,26%; có trình độ TS, TSKH là 12,43%; có trình độ thạc sĩ (ThS) là 32,26%. Trong khi quy định, mục tiêu cần đạt đến năm 2010 là 25% GV có trình độ TS, TSKH và 40% có trình độ ThS.
Về phân bố, số lượng GV có chức danh GS, PGS, trình độ TS, TSKH dồn về 14 trường ĐH trọng điểm, chiếm gần 50% lực lượng GV cả nước. Ở khối các trường CĐ, tỉ lệ này đều rất thấp. Trong hầu hết các trường CĐ, đội ngũ cán bộ giảng dạy không chỉ thiếu về số lượng, mà còn không chuẩn hóa về trình độ. Tỉ lệ GV có trình độ ThS, TS rất thấp, chủ yếu là ThS, TS quản lý giáo dục mà không phải ThS, TS chuyên ngành.
ĐH dân lập: Thiếu GV trầm trọng
Tình hình GV ở các trường ĐH dân lập (DL) còn khủng hoảng hơn. Theo quy định, GV cơ hữu ở các trường ĐH DL phải đạt 50% trong tổng số GV. Thực tế, dù đã phấn đấu nhiều nhưng đối với các trường ĐH DL điều này vẫn còn quá xa vời.
19 trường ĐH DL trong cả nước có số GV cơ hữu là 1.664/5.012 GV. Trường ĐH DL Văn Hiến có 28 GV cơ hữu, Trường ĐH DL Hồng Bàng: 4, Trường ĐH DL Hùng Vương: 43...
Do nhiều nguyên nhân, các trường ĐH DL khó thu hút GV có học hàm, học vị. Số lượng GS, PGS cũng như TS ở 19 trường ĐH DL rất hiếm hoi. 7/19 trường “trắng” GS. Các trường ĐH DL Phương Đông, Văn Lang, Bình Dương, Lạc Hồng, Cửu Long mỗi trường đều chỉ có một GS...
Để có một GV cơ hữu, trung bình các trường phải trả mức lương trên dưới 2 triệu đồng/tháng và nhiều nghĩa vụ khác đối với người lao động theo quy định (bảo hiểm, lương tháng 13).
Trong khi, sử dụng GV thỉnh giảng, xong tiết nào, trả tiền tiết đó, gọn nhẹ (thấp nhất khoảng 25.000 đồng/tiết thực hành, 40.000 đồng/tiết lý thuyết, cao nhất là khoảng 150.000 đồng/tiết đối với GV có học hàm, học vị). Việc sử dụng nhiều GV thỉnh giảng của các trường ĐH DL vô hình trung đã làm tăng giờ giảng của GV các trường ĐH công lập vốn đã cao càng cao hơn.